Đánh giá tính tương thích của pháp luật Việt Nam với Công ước Singapore về hòa giải

12/18/2025

Tóm tắt

LS. Nguyễn Trung Nam là Luật sư sáng lập Công ty Luật EP Legal, đồng thời là Phó giám đốc Trung tâm Hòa giải Việt Nam (VMC) thuộc VIAC. Từ thực tiễn tư vấn, giải quyết tranh chấp và tham gia xây dựng chính sách, tác giả đặc biệt quan tâm đến việc đối chiếu khung pháp lý về hòa giải của Việt Nam với các chuẩn mực quốc tế. Trong bài viết này, ông phân tích mức độ tương thích giữa BLTTDS 2015, Nghị định 22/2017 và Công ước Singapore về hòa giải, qua đó đề xuất các hướng hoàn thiện pháp luật nhằm chuẩn bị cho khả năng Việt Nam gia nhập Công ước và tăng cường hiệu lực thi hành kết quả hòa giải thành.

Nội dung


Tóm tắt về khuôn khổ pháp lý của Việt Nam về hòa giải ​


Chương XXXIII của BLTTDS 2015 quy định về thủ tục công nhận kết quả hoà giải thành (MSA) ngoài Tòa án được hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải, cụ thể trong phạm vi bài viết này là Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ về Hòa giải thương mại (“Nghị định 22/2017”). Nghị định này hiện chỉ đang điều chỉnh đối với các MSA được các hòa giải viên thương mại vụ việc hoặc hòa giải viên thương mại của tổ chức hòa giải thương mại được đăng ký tại Việt Nam. Pháp luật Việt Nam hiện tại chưa có quy định về việc xem xét công nhận MSA có yếu tố quốc tế như quy định tại Công ước Singapore (“CƯ Singapore”). 

Theo đó, các thỏa thuận hòa giải thành được ký kết ở nước ngoài sẽ chỉ được coi như là các thỏa thuận hợp đồng dân sự, và việc thi hành của chúng sẽ phải được thực hiện thông qua các phương thức giải quyết tranh chấp thông thường như Tòa án hay Trọng tài. Việt Nam cũng chưa phải thành viên của CƯ Singapore, và các quy định của Công ước không có giá trị ràng buộc với Việt Nam. Bài viết này nhằm nghiên cứu, đánh giá tính tương thích giữa luật pháp Việt Nam và CƯ Singapore, thông qua đó đánh giá, kiến nghị việc sửa đổi pháp luật Việt Nam nhằm chuẩn bị cho việc Việt Nam tham gia CƯ Singapore. ​
Hoạt động hòa giải thương mại tại Việt Nam trong sáu năm qua đang dần phát triển kể từ khi Nghị định số 22/2017/NĐ-CP thương mại được ban hành. Tuy nhiên, thực trạng nhiều doanh nghiệp trên thực tế vẫn chưa tin tưởng vào sự hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải, đặc biệt là ở vấn đề công nhận và cho thi hành kết quả hòa giải thành. ​



Nội dung chính của Công ước Singapore​


CƯ Singapore gồm 16 điều, trong đó Điều 1 đến Điều 6 quy định các nội dung chính của Công ước và từ Điều 7 đến Điều 16 là các quy định về công pháp quốc tế. Cụ thể, một số nội dung chính của CƯ Singapore như sau:​

Điều 1 quy định về phạm vi áp dụng của Công ước: Công ước hướng tới các MSA có đầy đủ các bốn yếu tố bao gồm: (1) thỏa thuận giải quyết tranh chấp là kết quả của quá trình hòa giải, (2) bằng văn bản, (3) phải là tranh chấp thương mại và (4) “mang tính quốc tế”. Bên cạnh đó, CƯ Singapore quy định rõ các trường hợp loại trừ áp dụng. Việc loại trừ này mục đích để tập trung vào phạm vi áp dụng của Công ước hướng tới các tranh chấp thương mại và tránh sự trùng lặp với các văn kiện khác điều chỉnh việc công nhận và cho thi hành đối với phán quyết trọng tài và bản án của tòa án nước ngoài mà đã được Công ước New York 1958 và các Công ước La Hay 2005 đã quy định.​

Điều 3 mang tinh thần cốt lõi của CƯ Singapore quy định về các nguyên tắc trong việc các nước cam kết thi hành MSA và việc một bên có quyền viện dẫn hòa giải thành như một căn cứ chứng minh tranh chấp đã được giải quyết.​

Điều 4 của CƯ Singapore quy định cụ thể các điều kiện đối với một MSA để cơ quan có thẩm quyền công nhận. Trong đó đáng chú ý về việc (1) Công ước Singapore linh hoạt trong việc chấp nhận bất kỳ bằng chứng nào khác chứng minh trong trường hợp không có chữ ký của hòa giải viên; (2) Công ước Singapore còn cho phép tiến hành hòa giải qua phương thức điện tử nếu có biện pháp đáng tin cậy.

Điều 5 của CƯ Singapore quy định cụ thể các căn cứ từ chối công nhận mà cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét để đưa ra quyết định. Các căn cứ từ chối công nhận này có tham khảo nhiều từ các căn cứ từ chối công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài theo Điều 5 Công ước New York.​

Điều 6 của CƯ Singapore quy định về việc xử lý các đơn yêu cầu song song. Cụ thể, cơ quan có thẩm quyền có thể tạm hoãn việc đưa ra quyết định đối với yêu cầu công nhận MSA nếu trước đó, một yêu cầu khác liên quan đến MSA đó đã được nộp tới Tòa án, hội đồng trọng tài hoặc cơ quan có thẩm quyền khác. ​
Từ Điều 7 đến Điều 16 của CƯ Singapore là các quy định liên quan đến công pháp quốc tế.​


Đánh giá tính tương thích giữa Công ước Singapore và pháp luật Việt Nam ​


CƯ Singapore đòi hỏi các quốc gia thành viên phải thay đổi nội luật của mình để thi hành Công ước. Vì vậy, tất yếu sẽ có sự không tương thích giữa pháp luật hiện tại của Việt Nam và CƯ Singapore, đòi hỏi pháp luật Việt Nam phải sửa đổi để thi hành Công ước này. Các nội dung so sánh cơ bản được trình bày dưới đây.​


1. Phạm vi áp dụng​
Điều 1.1 của CƯ Singapore quy định về phạm vi áp dụng của Công ước rất rộng nhằm bao quát hết các MSA mà trong đó chỉ cần xem xét đến sự khác biệt ở (1) địa điểm kinh doanh của các bên ở các quốc gia khác nhau hoặc (2) quốc gia nơi phần lớn nghĩa vụ được thực hiện hoặc quốc gia có quan hệ mật thiết với MSA khác với địa điểm kinh doanh của các bên. Nghị định 22/2017 không quy định phạm vi điều chỉnh cho các MSA căn cứ vào địa điểm kinh doanh của các bên trong tranh chấp như trên. Thay vào đó, pháp luật Việt Nam điều chỉnh các MSA được các hòa giải viên thương mại vụ việc hoặc hòa giải viên thương mại của tổ chức hòa giải thương mại được đăng ký tại Việt Nam thực hiện. ​

2. Điều kiện công nhận và cho thi hành ​
Điều 4.1 của CƯ Singapore chỉ yêu cầu cung cấp các tài liệu sau để công nhận và cho thi hành: (i) MSA được ký bởi các bên; (ii) Bằng chứng rằng thỏa thuận giải quyết tranh chấp là kết quả của hòa giải, bao gồm: chữ ký của hòa giải viên trên MSA; tài liệu ký bởi hòa giải viên xác nhận hòa giải đã được thực hiện; xác nhận của trung tâm hòa giải đã thực hiện quá trình hòa giải; hoặc bất kỳ chứng cứ nào khác mà cơ quan có thẩm quyền chấp nhận. ​
Như vậy, so với pháp luật Việt Nam, Công ước có quy định cởi mở và linh hoạt hơn. Nó cho phép MSA chứng minh không chỉ bằng chữ ký của hòa giải viên trên văn bản hòa giải thành, mà có thể bằng xác nhận riêng rẽ của hòa giải viên, của tổ chức hòa giải, và mọi phương pháp chứng minh mà cơ quan có thẩm quyền có thể chấp nhận.​


3. Từ chối công nhận do MSA bị vô hiệu, không thể thi hành hoặc không phải là thỏa thuận cuối cùng và không ràng buộc các bên ​
Điều 5.1.(b) của CƯ Singapore quy định cơ sở từ chối công nhận MSA liên quan đến nội dung và hiệu lực của MSA. Cụ thể, MSA sẽ bị từ chối công nhận nếu (i) MSA bị vô hiệu, không khả thi hoặc không thể thực hiện được theo pháp luật ràng buộc các bên hoặc theo pháp luật mà Cơ quan có thẩm quyền xem xét yêu cầu áp dụng; hoặc (ii) MSA không ràng buộc trách nhiệm các bên, không phải là thỏa thuận cuối cùng theo các điều khoản của MSA đó; hoặc (iii) MSA đã bị sửa đổi sau đó. ​
Đối với vấn đề xem xét hiệu lực và khả năng thi hành của MSA, Công ước cho phép cơ quan xem xét công nhận của quốc gia thành viên có quyền từ chối công nhận nếu theo pháp luật điều chỉnh được áp dụng, MSA bị vô hiệu hay không thể thi hành được. Trong trường hợp pháp luật áp dụng là pháp luật Việt Nam, việc xét xem điều kiện ở Điều 417.1 (năng lực dân sự của các bên) và 417.4 (nội dung MSA là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba) của BLTTDS 2015 khá tương đồng với việc xem xét hiệu lực của MSA như quy định của Công ước. Đây là các yếu tố dẫn tới giao dịch dân sự bị vô hiệu quy định tại Điều 122, 123, 124, 127 của Bộ luật Dân sự 2015. Về khả năng thi hành, Điều 417 BLTTDS 2015 không đề cập đến việc xem xét khả năng thi hành của MSA theo pháp luật áp dụng. Pháp luật Việt Nam chỉ quy định các trường hợp sau liên quan tới một thỏa thuận không được thi hành: (i) bất khả kháng;19 (ii) trường hợp khả năng thực hiện nghĩa vụ của một bên bị giảm sút nghiêm trọng tới mức không thể thực hiện được nghĩa vụ như đã cam kết. Tuy nhiên hậu quả của hai trường hợp trên là hoàn toàn khác biệt với kết quả khi áp dụng CƯ Singapore: Theo CƯ Singapore, một thỏa thuận không có khả năng thi hành theo pháp luật áp dụng sẽ không được công nhận và cho thi hành.​


4. Một số nội dung Công ước Singapore mà Việt Nam thiếu quy định tương ứng​

(a) Từ chối công nhận MSA do nghĩa vụ đã được thực hiện hoặc không rõ ràng​

Điều 5.1.(c) CƯ Singapore cho phép cơ quan có thẩm quyền có thể từ chối công nhận MSA theo yêu cầu của bên phải thực hiện nếu bên đó cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền chứng cứ chứng minh rằng các nghĩa vụ trong MSA (i) đã được thực hiện; hoặc (ii) không rõ hoặc không thể hiểu được. ​

(b) Từ chối công nhận do trái với điều khoản của MSA ​

Điều 5.1.(d) CƯ Singapore quy định, cơ quan có thẩm quyền của một quốc gia có quyền từ chối công nhận MSA khi bên phải thi hành MSA chứng minh được rằng việc công nhận trái với các điều khoản trong MSA. “Điều khoản trong MSA” này bao hàm cả những thỏa thuận có các nghĩa vụ đối ứng, quy định điều kiện để một bên thực hiện nghĩa vụ. Điều này có nghĩa, việc không thực hiện nghĩa vụ của một bên, hoặc một điều kiện khác không đạt được có thể dẫn đến việc không thực hiện của bên còn lại. ​

(c) Từ chối công nhận MSA do Hòa giải viên vi phạm tiêu chuẩn được áp dụng​

Điều 5.(e) của CƯ Singapore đưa ra một trường hợp là căn cứ cho việc cơ quan có thẩm quyền của quốc gia có thể từ chối công nhận MSA: “Hòa giải viên vi phạm một vi phạm nghiêm​ trọng liên quan đến các tiêu chuẩn áp dụng đối với hòa giải viên hoặc hoạt động hòa giải, mà nếu không có vi phạm đó thì một bên đã không ký kết thỏa thuận hòa giải thành đó”.​

Điều khoản này cho phép một bên căn cứ vào việc hòa giải viên có hành vi vi phạm nghiêm trọng để phản đối các nội dung thỏa thuận trong MSA. Vi phạm mà hòa giải viên vi phạm liên quan đến các tiêu chuẩn áp dụng đối với hòa giải viên hoặc hoạt động hòa giải phải thỏa mãn hai điều kiện, bao gồm: (i) là lỗi nghiêm trọng và (ii) việc vi phạm đó có mối quan hệ nhân quả với việc một bên tham gia ký kết MSA. Nghị định 22/2017 có các quy định về tiêu chuẩn hòa giải viên thương mại và nghĩa vụ của hòa giải viên thương mại25. Tuy nhiên, các quy định này không phải là cơ sở pháp lý để một bên có thể viện dẫn đến trong trường hợp có đơn yêu cầu tòa án từ chối công nhận MSA theo Điều 417 của BLTTDS 2015.​

(d) Từ chối công nhận liên quan tới tính độc lập, khách quan của HGV​

Điều 5.(f) của CƯ Singapore là căn cứ cho việc cơ quan có thẩm quyền của quốc gia có thể từ chối công nhận MSA trong trường hợp: “Hòa giải viên không tiết lộ cho các bên về những trường hợp gây ra những nghi ngờ chính đáng liên quan đến tính độc lập, không thiên vị của hòa giải viên, và việc không tiết lộ như vậy gây ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc quá mức lên một bên mà nếu không có vi phạm đó thì một bên đã không ký kết thỏa thuận hòa giải đó.”

(e) Từ chối công nhận do trái với chính sách công ​

Điều 5.2 của CƯ Singapore đưa ra các trường hợp là căn cứ cho cơ quan có thẩm quyền của một nước thành viên tham gia Công ước có thể từ chối công nhận MSA mà pháp luật Việt Nam chưa quy định như sau: (i) Việc công nhận sẽ trái với chính sách công của nước thành viên tham gia Công ước này; hoặc (ii) Vấn đề tranh chấp không thể giải quyết bằng hòa giải theo pháp luật của nước thành viên đó.​


5. Yêu cầu của pháp luật Việt Nam không có quy định trong Công ước Singapore​

Điều 417.2 BLTTDS 2015 quy định một trong các điều kiện để công nhận MSA ngoài Tòa án rằng nếu nội dung MSA liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý. CƯ Singapore không có quy định tương tự. ​

Kết luận

Từ các vấn đề chưa tương thích ở mục III nêu trên, có thể thấy pháp luật Việt Nam hiện tại chưa xem xét đến việc công nhận các kết quả hòa giải thành có yếu tố quốc tế được giải quyết bằng phương thức hòa giải. Qua đối chiếu về tính tương thích giữa pháp luật Việt Nam và CƯ Singapore, tác giả đưa ra 3 đề xuất sau: ​

- Mở rộng định nghĩa thỏa thuận hòa giải thành, nới rộng quy định về hình thức MSA, mở rộng phạm vi công nhận đối với các kết quả hòa giải thành có tính quốc tế như CƯ Singapore. Cụ thể hơn cần mở rộng phạm vi điều chỉnh quy định tại Nghị định 22/2017 và nâng Nghị định này thành Luật hòa giải thương mại.​

- Bổ sung các căn cứ để Tòa án có cơ sở từ chối công nhận các kết quả hòa giải thành tương tự như Điều 5 CƯ Singapore, đồng thời loại bỏ các điều kiện không phù hợp trong thủ tục và thể thức công nhận và cho thi hành MSA. ​

- Loại bỏ điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành về yêu cầu có được sự đồng ý của bên thứ ba nếu nội dung hòa giải liên quan đến nghĩa vụ của bên thứ ba.​

---
* Bài viết trích từ ấn phẩm hoà giải số HG02 do VMC phát hành vào tháng 12/2023, vui lòng tuy cập tại đây để xem toàn bộ ấn phẩm: ẤN PHẨM HOÀ GIẢI SỐ HG02

Related Post

  • HONG KONG ARBITRATION SOCIETY LIMITED
    HONG KONG INTERNATIONAL MEDIATION CENTRE
    Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
    Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh
    Thời báo Kinh tế Sài Gòn
    Hội luật Quốc tế Việt Nam
    Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
    International Dispute Resolution & Risk Management Institute
    Korean International Mediation Center
    Singapore International Mediation Centre
    Shanghai Commercial Mediation Center (SCMC)
    Câu lạc bộ Luật sư thương mại quốc tế
    Internation Finance Corporation
    Báo Diễn đàn doanh nghiệp